Bài tập nghiên cứu ngày 4 tháng 11 năm 2024
Felaya và cộng sự. (2022)

Bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức

Bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức (1)

Giới thiệu

Mặc dù phẫu thuật van tim là cần thiết để tăng tuổi thọ cho những người mắc bệnh van tim, nhưng cứ 4 người thì có khoảng 1 người cần phải nhập viện trở lại trong vòng 30 ngày. Một nguyên nhân thường gặp khiến bệnh nhân tái nhập viện là tình trạng mất ổn định xương ức và không liền xương ức, do thủ thuật cắt xương ức giữa. Vết thương chậm lành hoặc không lành cũng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Trong 2 tuần đầu sau phẫu thuật, xương ức bị cắt đôi sẽ có những chuyển động không sinh lý là bình thường. Tuy nhiên, sau đó cần phải có quá trình chữa lành để xương ức trở lại trạng thái ổn định. Bài báo hiện tại muốn khám phá hiệu quả của việc tuyển dụng các cơ giúp ổn định xương ức bị chia cắt để giảm thiểu chuyển động quá mức của hai nửa và tìm hiểu xem các bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức có thể cải thiện sự ổn định của xương ức hay không.

 

Phương pháp

Bài báo hiện tại sử dụng thiết kế thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên để nghiên cứu hiệu quả của các bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức. Những phụ nữ trong độ tuổi 40-50 đã phẫu thuật van tim qua đường rạch xương ức giữa được tuyển dụng sau một tuần phẫu thuật. Tiêu chí loại trừ bao gồm tiền sử phẫu thuật ngực, các tình trạng bệnh lý nghiêm trọng như tiểu đường hoặc tăng huyết áp không kiểm soát được và các tình trạng có thể ảnh hưởng đến vật lý trị liệu.

Họ được phân vào nhóm thử nghiệm, nhóm này thực hiện các bài tập ổn định thân ngoài chương trình phục hồi tim tiêu chuẩn, hoặc nhóm đối chứng, nhóm này chỉ tham gia chương trình phục hồi tim.

  • Nhóm kiểm soát : Nhóm này tham gia chương trình phục hồi chức năng tim mà không thực hiện thêm các bài tập ổn định thân. Điều này bao gồm việc huy động dần dần, giáo dục về cách quản lý bệnh tật và các bài tập cường độ vừa phải như chạy trên máy chạy bộ và tập luyện trên máy tập cơ tay/chân. Cường độ tập luyện ở mức 75-80% nhịp tim tối đa, được tính theo công thức 220-tuổi. Trong trường hợp những người tham gia dùng thuốc chẹn beta, nhịp tim mục tiêu cao hơn 20 nhịp/phút so với nhịp tim khi nghỉ ngơi.
  • Nhóm thực nghiệm : Cùng với chương trình phục hồi tim tiêu chuẩn như mô tả ở trên, những người tham gia thực hiện các bài tập ổn định thân mình nhắm vào các cơ bụng và thành ngực trước. Các bài tập này được thiết kế để giảm thiểu chuyển động không mong muốn của xương ức bị cắt đôi. Các bài tập được thực hiện ba lần một tuần trong bốn tuần. Mỗi bài tập được lặp lại từ 5 đến 10 lần trong mỗi buổi tập. Các bài tập này nhằm mục đích ổn định xương ức trong quá trình chuyển động thân mình theo cả mặt phẳng đứng và mặt phẳng ngang. Xem bài tập dưới đây.

Kết quả chính là sự tách biệt xương ức được đo bằng siêu âm. Khoảng cách giữa hai nửa xương ức được định lượng và điểm tách biệt lớn nhất được đánh dấu. Kết quả thứ cấp là thang đo mất ổn định xương ức được sử dụng để đánh giá tính toàn vẹn của xương ức từ mức 0 (xương ức ổn định về mặt lâm sàng) đến mức 3 (chuyển động hoặc tách rời đáng kể). Các phép đo được thực hiện vào thời điểm ban đầu (ngày thứ 7 sau phẫu thuật) và tuần thứ 4.

 

Kết quả

Có ba mươi sáu phụ nữ bị mất ổn định xương ức cấp tính được xác nhận bằng siêu âm. Các đặc điểm cơ bản cho thấy có hai nhóm tương đương nhau. Họ có khoảng cách xương ức ban đầu là 0,23cm

bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức
Từ: Felaya và cộng sự, Nhà vật lý trị liệu. (2022)

 

Kết quả chính của tình trạng tách xương ức ở tuần thứ 4 là 0,13 cm ở nhóm thử nghiệm và 0,22 ở nhóm đối chứng. Điều này tạo ra sự khác biệt giữa các nhóm là -0,09cm (95% CI 0,07 đến 0,11) có lợi cho nhóm can thiệp thực hiện các bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức.

bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức
Từ: Felaya và cộng sự, Nhà vật lý trị liệu. (2022)

 

Kết quả thứ cấp cho thấy nhóm thử nghiệm có khả năng cải thiện gấp đôi ít nhất một cấp độ trên thang đo bất ổn xương ức (RR 2,00, CI 95% 1,07 đến 3,75). Nhóm thử nghiệm có khả năng đạt được xương ức ổn định về mặt lâm sàng (mức 0) sau bốn tuần cao gấp gần ba lần (RR 2,75, CI 95% 1,07 đến 7,04).

bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức
Từ: Felaya và cộng sự, Nhà vật lý trị liệu. (2022)

 

Câu hỏi và suy nghĩ

Sự ổn định của xương ức có thể kéo dài tới hai tuần sau phẫu thuật và quá trình lành xương ức được báo cáo là mất 2-3 tháng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, những người tham gia đã được tuyển dụng vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật. Đây là khoảng thời gian tuyệt vời vì chúng ta có thể mong đợi rằng những người trong cả hai nhóm có thể được so sánh trên cơ sở ngang nhau về khoảng cách xương ức.

Chúng ta phải sử dụng những cơ nào để có tác dụng giữ chặt xương ức?

Các cơ có tác dụng chống đỡ theo hướng ngang: M. Transversus Abdominis, M. Transversus Thoracis, M. Obliquus Internus Abdominis. Sự co thắt của cơ bụng có thể được cảm nhận và kiểm soát. Sự co cơ M. Transversus Thoracis không thể, nhưng hoạt động trong quá trình thở ra gắng sức. Do đó, việc đưa các bài tập hô hấp, dẫn lưu phổi, cố định xương ức và phục hồi lồng ngực đã mở có vẻ phù hợp nhưng chưa được nghiên cứu trong RCT hiện tại.

Những bài tập nào đã được thực hiện?

  • Co thắt bụng nằm ngửa : Bệnh nhân nằm ngửa với một chiếc khăn cuộn dưới xương bả vai để giảm thiểu đau đớn và thoải mái hơn. Họ co cơ bụng (tập trung vào cơ ngang bụng), giữ trong 6-10 giây, sau đó thả lỏng. Lặp lại động tác này 5-10 lần.
  • Co cơ bụng khi ngồi : Động tác co bụng giống như khi nằm ngửa, nhưng được thực hiện khi ngồi.
  • Co thắt bụng khi đứng : Bài tập này giống như bài tập trên, nhưng được thực hiện ở tư thế đứng.
  • Ngồi với sức đề kháng ở chi trên (tạ 0,5 kg) : Khi ngồi, bệnh nhân co cơ bụng và giơ cả hai tay, mỗi tay cầm 0,5 kg, lên ngang vai, sau đó hạ xuống.
  • Đứng với sức đề kháng của chi trên : Tương tự như trên, nhưng thực hiện khi đang đứng.
  • Ngồi nâng cao cánh tay hai bên : Bệnh nhân nâng cả hai cánh tay mà không cần thêm tạ lên ngang vai trong khi vẫn duy trì sự co cơ trung tâm, sau đó thư giãn.
  • Nâng cao cánh tay song phương khi đứng : Giống như trên, nhưng thực hiện ở tư thế đứng.
  • Ngồi nâng cao cánh tay một bên : Bệnh nhân nâng cánh tay phải lên ngang vai, sau đó thả lỏng và lặp lại với cánh tay trái. Động tác này được thực hiện trong khi co cơ bụng.
  • Đứng nâng cao cánh tay một bên : Giống như bài tập trước, nhưng thực hiện ở tư thế đứng.
  • Ngồi nâng cao cánh tay một bên với sức đề kháng : Bệnh nhân nâng cánh tay phải, mang vật nặng 0,5 kg, lên ngang vai, sau đó lặp lại bài tập với cánh tay trái.
  • Đứng nâng cao cánh tay một bên với sức đề kháng : Bài tập này giống như trên nhưng được thực hiện khi đứng

Liên kết này hiển thị video về thủ thuật cắt xương ức giữa. Cảnh báo: không dành cho người xem nhạy cảm.

 

Nói chuyện với tôi một cách ngớ ngẩn

Nghiên cứu này chỉ bao gồm phụ nữ, điều này hạn chế khả năng khái quát hóa của kết quả nghiên cứu. Các tác giả không đưa ra lý do rõ ràng nào cho quyết định này.

Để tính toán số lượng người tham gia cần thiết, các tác giả đã sử dụng dữ liệu thí điểm. Ngoài ra, thông tin từ các nghiên cứu khác cũng được tích hợp vào thiết kế. Ví dụ, một nghiên cứu của El-Ansary và cộng sự. (2007) phát hiện ra rằng mức độ tách xương ức không liên quan đến loại chuyển động chi trên được thực hiện. Mặt khác, cơn đau xương ức xuất hiện nhiều hơn khi thực hiện các chuyển động đơn phương của chi, cả khi có tải và không tải. Do đó, nghiên cứu hiện tại đã giảm thiểu các chuyển động đơn phương trong đơn thuốc tập thể dục

Các bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức từ nhóm can thiệp có hiệu quả tốt hơn trong việc cải thiện tình trạng tách xương ức. Sự khác biệt về khoảng cách xương ức này có ý nghĩa thống kê nhưng khoảng tin cậy cũng rất hẹp và do đó chính xác. Tuy nhiên, sự cải thiện vẫn rất nhỏ: 1 milimét. Tuy nhiên, vì chỉ tìm thấy khoảng cách 2,3 mm ở mức cơ bản nên mức cải thiện 1 mm này tương đương với mức cải thiện khoảng 43%, so với mức cải thiện chỉ 0,1 mm ở nhóm đối chứng (cải thiện 5%).

Tuy nhiên, sự cải thiện còn nhỏ, ý nghĩa lâm sàng của việc tối ưu hóa quá trình chữa lành xương ức là rất quan trọng. El-Ansary và cộng sự (2007) phát hiện ra rằng những người đã phẫu thuật tim và bị mất ổn định xương ức mãn tính vẫn có mức độ chuyển động xương ức phức tạp và tách biệt cao hơn khi đo sau nhiều tháng đến nhiều năm sau khi họ phẫu thuật tim.

Các kết quả thứ cấp hỗ trợ phân tích chính nhưng có khoảng tin cậy rộng hơn nhiều. Do đó, kết quả của thang đo độ bất ổn xương ức có nhiều sự không chắc chắn hơn. Một số người tham gia đã cải thiện đáng kể, trong khi những người khác cải thiện rất ít. Tuy nhiên, thang đo độ bất ổn định xương ức là một biện pháp chủ quan vì nó được đánh giá trong quá trình khám sức khỏe để đánh giá mức độ chuyển động của xương ức. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi chuyên môn và những chuyển động rất nhỏ được đánh giá rất dễ xảy ra sai sót và thiên vị của nhà nghiên cứu. Điều này có thể giải thích một phần tại sao những phát hiện này có khoảng tin cậy rộng hơn nhiều. El-Ansary và cộng sự (2000) đã báo cáo độ tin cậy giữa các đánh giá viên (99%) và độ tin cậy nội bộ của người đánh giá viên (98%) hoàn hảo sau quá trình đào tạo và kiểm tra chuẩn hóa. Tuy nhiên, bản chất chủ quan của nghiên cứu này và việc cảm nhận những chuyển động nhỏ như vậy có thể cần được xác nhận thêm.

Thang đo bất ổn xương ức
Từ: El-Ansary, D., Waddington, G., Denehy, L., McManus, M., Fuller, L., Katijjahbe, A., … & Adams, R. (2018). Đánh giá vật lý về độ ổn định xương ức sau phẫu thuật tim qua đường rạch xương ức giữa: tính hợp lệ và độ tin cậy của thang đánh giá độ ổn định xương ức (sis). Tạp chí quốc tế về vật lý trị liệu & Phục hồi chức năng, 4(1). https://doi.org/10.15344/2455-7498/2018/140
Thang đo bất ổn xương ức
Từ: El-Ansary, D., Waddington, G., Denehy, L., McManus, M., Fuller, L., Katijjahbe, A., … & Adams, R. (2018). Đánh giá vật lý về độ ổn định xương ức sau phẫu thuật tim qua đường rạch xương ức giữa: tính hợp lệ và độ tin cậy của thang đánh giá độ ổn định xương ức (sis). Tạp chí quốc tế về vật lý trị liệu & Phục hồi chức năng, 4(1). https://doi.org/10.15344/2455-7498/2018/140

 

Những thông điệp mang về nhà

Các bài tập ổn định thân sau phẫu thuật cắt xương ức có thể được đưa vào chương trình phục hồi chức năng vật lý trị liệu sau phẫu thuật van tim một cách an toàn. Các bài tập này đơn giản, chỉ cần thiết bị tối thiểu và có thể kết hợp vào chế độ chăm sóc tiêu chuẩn để tăng cường khả năng phục hồi của bệnh nhân và ngăn ngừa các biến chứng như tình trạng tách xương ức kéo dài.

 

Thẩm quyền giải quyết

Essam El-Sayed Felaya ES, Abd Al-Salam EH, Shaaban Abd El-Azeim A. Các bài tập ổn định thân mình thúc đẩy sự ổn định xương ức ở những bệnh nhân sau phẫu thuật cắt xương ức giữa để phẫu thuật van tim: một thử nghiệm ngẫu nhiên. J Vật lý trị liệu. 2022 Tháng 7;68(3):197-202. doi: 10.1016/j.jphys.2022.06.002. Epub 2022 ngày 23 tháng 6. Bản đính chính trong: J Vật lý trị liệu. 2024 tháng 10;70(4):255. doi: 10.1016/j.jphys.2024.09.001. Mã số PM: 35753968.

 

Tìm hiểu thêm

Phục hồi chức năng tim: Phục hồi chức năng trong hội chứng vành cấp

EXCEL TRONG PHỤC HỒI VAI

HAI HUYỀN THOẠI BỊ PHÁ VỠ & 3 QUẢ BOM KIẾN THỨC MIỄN PHÍ

Trường đại học nào không nói cho bạn biết về hội chứng chèn ép vai và loạn động xương bả vai cũng như cách cải thiện đáng kể tình trạng vai của bạn mà không phải trả một xu nào!

 

Khóa học miễn phí CTA vai
Tải xuống ứng dụng MIỄN PHÍ của chúng tôi