Ellen Vandyck
Quản lý nghiên cứu
Bệnh xơ cơ có đặc điểm là các cơn đau lan rộng được làm giảm nhờ sự nhạy cảm của hệ thần kinh trung ương. Đối với bệnh nhân đau xơ cơ, khuyến cáo tham gia liệu pháp tập thể dục được chấp nhận rộng rãi. Các phương thức tập thể dục được phát hiện có hiệu quả trong việc kiểm soát cơn đau ở hội chứng xơ cơ. Có nhiều phương thức khác nhau có thể phù hợp để giảm đau và cải thiện chất lượng cuộc sống của những người này. Những tác động tích cực đã được báo cáo đối với cả các biện pháp can thiệp tập thể dục dưới nước và trên cạn. Tuy nhiên, các phương thức này chưa được so sánh với nhau trong các thử nghiệm chất lượng cao về hiệu quả của chúng. Đó chính là mục đích của nghiên cứu này.
Để nghiên cứu hiệu quả của việc tập thể dục trong việc kiểm soát cơn đau ở hội chứng xơ cơ, nghiên cứu này đã tuyển dụng những phụ nữ trong độ tuổi từ 35 đến 64 được chẩn đoán mắc bệnh xơ cơ dựa trên tiêu chí của Hội thấp khớp học Hoa Kỳ (ACR).
Những người tham gia được phân công ngẫu nhiên vào nhóm trị liệu dưới nước hoặc nhóm tập thể dục trên cạn.
Các thành phần của bài tập dưới nước bao gồm:
Bài tập dựa trên L và bao gồm:
Đo lường kết quả chính là cường độ đau bằng thang đo trực quan. Các kết quả phụ bao gồm ngưỡng chịu đau do áp lực, chất lượng cuộc sống, chất lượng giấc ngủ, sự mệt mỏi và khả năng thể chất. Tất cả các kết quả đều được đánh giá ở giai đoạn đầu, sau điều trị (12 tuần) và theo dõi (18 tuần).
Bốn mươi phụ nữ mắc bệnh đau xơ cơ được phân ngẫu nhiên vào nhóm trị liệu dưới nước (n = 20) hoặc nhóm tập thể dục trên cạn (n = 20). Cả hai nhóm đều tham gia các buổi tập thể dục kéo dài 60 phút, ba lần một tuần trong 12 tuần. Độ tuổi trung bình của họ là 50 và có các triệu chứng của bệnh xơ cơ trong thời gian trung bình là 11 năm. Các đặc điểm cơ bản không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm.
Liệu pháp thủy sinh được phát hiện có hiệu quả hơn trong việc kiểm soát cơn đau ở bệnh nhân đau xơ cơ sau 18 tuần theo dõi nhưng không hiệu quả sau 12 tuần so với bài tập trên cạn. Kích thước hiệu ứng tương ứng là lớn (d = 0,8), nhưng khoảng tin cậy lại rộng (95% CI 0,1-1,5).
Kết quả thứ cấp cho thấy sự khác biệt đáng kể duy nhất giữa liệu pháp dưới nước và liệu pháp trên cạn được ghi nhận đối với Chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh. Chỉ có một ít bằng chứng về sự khác biệt lâm sàng tối thiểu quan trọng (MCID) của bảng câu hỏi này. Trong nhóm người trải qua phẫu thuật sửa chữa gân cơ chóp xoay, mức thay đổi tối thiểu có thể phát hiện được (MDC) là 3,5 và MCID là 4,4 điểm. Sự chênh lệch 3 điểm nằm dưới ngưỡng của MCID và MDC, do đó không liên quan.
Những phát hiện này có thể áp dụng chung cho những phụ nữ mắc bệnh xơ cơ trong độ tuổi từ 35 đến 64 và thời gian kéo dài triệu chứng. Bối cảnh chuyên môn mà những người tham gia được tuyển dụng có thể hạn chế khả năng khái quát hóa thành thực hành chung.
Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy liệu pháp thủy sinh có thể là phương pháp điều trị hiệu quả để kiểm soát cơn đau ở bệnh xơ cơ. Các giao thức tập thể dục có cấu trúc được sử dụng trong nghiên cứu có thể được điều chỉnh và triển khai trong thực hành lâm sàng, nhấn mạnh lợi ích của môi trường nước đối với bệnh nhân mắc bệnh xơ cơ.
Phương pháp nghiên cứu chặt chẽ, bao gồm phân bổ ngẫu nhiên và thiết kế mù đơn, củng cố tính hợp lệ của các phát hiện. Việc sử dụng các biện pháp đánh giá kết quả chuẩn hóa và giao thức can thiệp được xác định rõ ràng sẽ đảm bảo độ tin cậy của kết quả. Tuy nhiên, cần lưu ý đến quy mô mẫu nhỏ và tỷ lệ tuân thủ cao khi diễn giải các phát hiện.
Các ứng viên thường xuyên hoạt động thể chất trước khi tham gia nghiên cứu đã bị loại khỏi việc tham gia nghiên cứu. Đây là một cách tiếp cận tốt để tạo ra sự đồng nhất hơn trong dân số, chỉ bao gồm hoặc chủ yếu bao gồm những người không hoạt động.
Một phát hiện có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tính đồng nhất của những người tham gia là cách chẩn đoán bệnh xơ cơ. Những người được chẩn đoán dựa trên tiêu chí của Hội thấp khớp học Hoa Kỳ năm 1990 hoặc 2010 đều đủ điều kiện tham gia. Tuy nhiên, cả hai tiêu chí này đều khác nhau. Tiêu chuẩn năm 1990 nhấn mạnh vào các điểm đau và yêu cầu phải có cơn đau lan rộng và đau ở một số điểm đau cụ thể (11 hoặc 18). Theo tiêu chuẩn năm 2010, cần có nhiều triệu chứng hơn, bao gồm đau, mệt mỏi và các triệu chứng về nhận thức, sử dụng chỉ số đau phổ biến và thang đo mức độ nghiêm trọng của triệu chứng, trong khi không cần kiểm tra điểm đau.
Một hạn chế của nghiên cứu này, bên cạnh quy mô mẫu nhỏ, nằm ở phân tích theo từng giao thức. Trong số 40 người tham gia, 5 người không theo dõi được, điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Phân tích theo từng giao thức có xu hướng đánh giá quá cao tác động, do đó có thể sự khác biệt giữa các nhóm thực sự nhỏ hơn mức chỉ ra trong nghiên cứu này.
Nghiên cứu này ủng hộ việc sử dụng bài tập dưới nước như một lựa chọn tốt hơn so với bài tập trên cạn để kiểm soát cơn đau lâu dài ở bệnh nhân xơ cơ. Các đặc tính độc đáo của nước, chẳng hạn như áp suất thủy tĩnh và nhiệt độ, có thể góp phần mang lại những lợi ích này bằng cách tăng cường chức năng cảm giác và vận động đồng thời giảm cảm giác đau. Mặc dù cả hai liệu pháp đều có hiệu quả sau điều trị, nhưng liệu pháp thủy sinh cho thấy hiệu quả kéo dài hơn khi theo dõi, cho thấy tiềm năng của liệu pháp này như một chiến lược can thiệp lâu dài cho bệnh xơ cơ. Gần đây, chúng tôi đã viết một bài đánh giá nghiên cứu khác về cách phân biệt hội chứng xơ cơ với bệnh thần kinh sợi nhỏ. Đọc ở đây .
Xem bài giảng video MIỄN PHÍ này về Dinh dưỡng và Nhạy cảm trung ương của nhà nghiên cứu về chứng đau mãn tính số 1 Châu Âu Jo Nijs. Những thực phẩm mà bệnh nhân nên tránh có thể sẽ khiến bạn ngạc nhiên!