Ellen Vandyck
Quản lý nghiên cứu
Đối với nhiều rối loạn cơ xương, phương pháp điều trị vật lý trị liệu đầu tay được khuyến nghị, nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp này trong việc cải thiện cơn đau và chức năng ở những đối tượng trẻ và trung niên (18-50 tuổi) bị đau liên quan đến hông (có hoặc không được chẩn đoán mắc hội chứng chèn ép xương đùi và ổ cối). Đã tiến hành đánh giá hệ thống có phương pháp luận chặt chẽ cùng với phân tích tổng hợp.
Đã tiến hành đánh giá có hệ thống với phân tích tổng hợp theo hướng dẫn PRISMA. Bài đánh giá bao gồm 14 ấn phẩm và 10 RCT được sử dụng trong tổng hợp định lượng.
Các biện pháp can thiệp tăng cường có mục tiêu kéo dài 3 tháng đã tạo ra những tác động gộp vừa phải có lợi cho vật lý trị liệu (0,66; 95% CI (0,09 đến 1,23) ở những bệnh nhân được điều trị không phẫu thuật. Không tìm thấy tác dụng đáng kể nào đối với các can thiệp có thời gian ngắn hơn (6-8 tuần). Do đó, mức độ bằng chứng bị hạn chế vì nó xuất phát từ các thử nghiệm RCT thí điểm.
Đã tìm thấy những tác động tích cực vừa phải đối với chức năng do bệnh nhân báo cáo có lợi cho vật lý trị liệu ở những bệnh nhân sau phẫu thuật nội soi (0,67; 95% CI 0,07 đến 1,26), tuy nhiên, bằng chứng còn hạn chế vì phát hiện này dựa trên 2 RCT thí điểm không thể gộp lại (do tính không đồng nhất trong phép đo kết quả). Cả hai nghiên cứu đều đạt điểm theo dõi cao hơn điểm PASS và MIC, nhưng có sự khác biệt lớn về tỷ lệ người đạt được những điểm đó (dao động từ 11%-90%).
Bằng chứng mạnh mẽ cho thấy tác dụng yếu ở thời điểm 8-12 tháng có lợi cho phẫu thuật nội soi hông (-0,32; 95% CI -0,57 đến -0,07). Tuy nhiên, tác dụng này rất nhỏ và không được coi là có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Bên cạnh đó, vật lý trị liệu tiết kiệm chi phí hơn nhiều so với phẫu thuật nội soi khớp háng (155 bảng Anh cho vật lý trị liệu so với 2372 bảng Anh cho phẫu thuật nội soi khớp háng).
Bằng chứng ở mức độ vừa phải cho thấy tác động vừa phải đến chức năng do bệnh nhân báo cáo (0,57; 95% CI 0,03 đến 1,12) sau 3 tháng vật lý trị liệu và tác động tích cực lớn đến chức năng (3,85; 95% CI 2,91 đến 4,78) sau 6 tháng vật lý trị liệu. Tuy nhiên, do không thể tập hợp các tác động này (tính không đồng nhất trong các biện pháp kết quả và thời điểm) nên cần thận trọng khi diễn giải các kết quả này. Tỷ lệ bệnh nhân đạt điểm cao hơn điểm PASS dao động từ 26%-86%.
Đối với những khiếm khuyết, mức độ bằng chứng bị hạn chế và không thể tập hợp được.
Có thể lưu ý một số điểm tốt. Trước hết, phương pháp này được thiết lập trước để giảm thiểu sai lệch trong lựa chọn. Thứ hai, các tác giả đã thực hiện tìm kiếm kỹ lưỡng, bao gồm cả tìm kiếm thay thế trong tài liệu xám và danh sách tài liệu tham khảo. Để giảm thiểu sai sót, hai nhà đánh giá độc lập chịu trách nhiệm lựa chọn nghiên cứu, trích xuất dữ liệu và phân tích. Ngoài ra, các nghiên cứu có chất lượng thấp hơn (bằng chứng cấp độ IV trở lên) cũng được đưa vào nhưng các tác giả đã xác định bằng chứng chất lượng cao của bài đánh giá này bằng cách chỉ sử dụng các nghiên cứu có can thiệp kiểm soát để tóm tắt những phát hiện chính. Cuối cùng, điểm theo dõi được so sánh với Trạng thái triệu chứng chấp nhận được của bệnh nhân (PASS) và điểm thay đổi quan trọng tối thiểu (MIC) để cung cấp một số bối cảnh về tính phù hợp lâm sàng của các tác dụng được báo cáo.
Một số hạn chế bao gồm chỉ có một phần ba số nghiên cứu được đưa vào nhận được đánh giá rủi ro sai lệch thấp. Hơn nữa, một số RCT được đưa vào là các nghiên cứu thí điểm và do đó có thể chúng không đủ mạnh và không thể phát hiện ra sự khác biệt giữa các nhóm. Ngoài ra, còn có sự không đồng nhất trong các quần thể được đưa vào nghiên cứu. Do bài đánh giá chỉ bao gồm các bài viết bằng tiếng Anh nên sự thiên vị trong việc đưa vào bài đánh giá có thể đã ảnh hưởng đến kết quả. Điểm PASS và MIC trước đây đã được xác định trong các nghiên cứu kiểm tra bệnh nhân mắc bệnh lý hông được điều trị bằng phẫu thuật, do đó không rõ liệu những điểm số này có phản ánh ngưỡng bảo thủ hay không.
Tóm lại, vật lý trị liệu có thể cải thiện chức năng và sức mạnh ở người lớn từ trẻ đến trung niên. Có bằng chứng hạn chế cho thấy các chương trình tăng cường sức mạnh có mục tiêu kéo dài ít nhất 3 tháng có thể mang lại kết quả tốt nhất. Một lợi thế nhỏ của phẫu thuật nội soi sau 8-12 tháng không có ý nghĩa lâm sàng nhưng không thể vượt qua được tính hiệu quả về mặt chi phí và độ an toàn cao hơn của vật lý trị liệu. Hơn nữa, bằng chứng hạn chế cho thấy lợi ích nhỏ này có lợi cho phẫu thuật nội soi không xuất hiện sau 24 tháng. Vật lý trị liệu chủ yếu bao gồm liệu pháp tập thể dục, nhưng cần có các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đầy đủ để nghiên cứu các thành phần tối ưu của chương trình phục hồi chức năng.
Cho đến nay, bằng chứng tốt nhất cho thấy vật lý trị liệu nên là phương pháp điều trị đầu tay cho chứng đau hông ở những người trẻ và trung niên. Vật lý trị liệu giúp cải thiện chức năng và sức mạnh, đồng thời có thể tác động đến các khiếm khuyết về thể chất. Hiệu quả lớn nhất đối với phạm vi chuyển động của hông được thấy sau 3 tháng can thiệp bao gồm các bài tập tăng cường sức mạnh, liệu pháp thủ công và giáo dục. Chương trình tăng cường sức mạnh trong 3 tháng giúp tăng cường sức mạnh cơ hông đáng kể, đặc biệt là ở cơ khép hông. Do một nghiên cứu trước đó phát hiện ra rằng điều này liên quan đến chất lượng cuộc sống liên quan đến hông tốt hơn, các tác giả chỉ ra rằng việc nhắm vào cơ khép có thể là một khía cạnh quan trọng của quá trình phục hồi chức năng.
Đừng để có nguy cơ bỏ lỡ những dấu hiệu cảnh báo tiềm ẩn hoặc phải điều trị cho người chạy bộ dựa trên chẩn đoán sai ! Hội thảo trực tuyến này sẽ giúp bạn tránh mắc phải những sai lầm mà nhiều nhà trị liệu thường mắc phải!