Ellen Vandyck
Quản lý nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, một thử nghiệm mới nhằm kiểm tra phạm vi chuyển động duỗi hông chức năng đã được đánh giá về độ tin cậy và giá trị. Bài kiểm tra vươn tay qua đầu khi đứng sau (SOAR) được phát triển như một biện pháp đo độ mở rộng hông theo chuỗi khép kín. Với bài kiểm tra này, việc duỗi hông có thể được đánh giá một cách khách quan hơn so với biện pháp duỗi hông nằm sấp thường được sử dụng. Vì bài kiểm tra này mới được phát triển gần đây nên trước tiên các tác giả đã kiểm tra nó trên một mẫu tự nguyện.
Những tình nguyện viên không có triệu chứng trong độ tuổi từ 18 đến 30 đã được tuyển dụng. Họ không có khiếu nại nào về đau lưng dưới hoặc đau chi dưới trong vòng 3 tháng qua, phẫu thuật, gãy xương hoặc bệnh lý thần kinh và có chỉ số BMI dưới 30.
Độ mở rộng hông được đo bằng máy đo góc bởi hai giám khảo bịt mắt ở tư thế kiểm tra chuẩn. Đầu tiên, một miếng dán được dán trên sàn ngay trước bàn chân đầu tiên khi bệnh nhân ở tư thế song song. Sau đó, người tham gia được hướng dẫn đứng với hai chân rộng bằng vai và gót chân không phải chân thử nghiệm nằm trên nhãn dán. Người tham gia giơ cả hai tay lên cao và nhấc bàn chân trước lên khỏi mặt đất sao cho chỉ có gót chân tiếp xúc với sàn và dồn trọng lượng cơ thể lên chân thử nghiệm. Sau đó, người ta yêu cầu đẩy hông về phía trước và đưa cánh tay về phía sau xa nhất có thể.
Vị trí của goniometer được chuẩn hóa: điểm tựa được đặt trên mấu chuyển lớn, cánh tay gần được đặt trên đường vuông góc với đường nối ASIS và PSIS, trong khi cánh tay xa được đặt thẳng hàng với đường giữa xương đùi.
Đã thực hiện ba lần thử để đạt được độ mở rộng hông tối đa và mỗi chân được thử nghiệm ba lần, xen kẽ giữa cả hai chân. Các phép đo này sau đó được so sánh để xác định độ tin cậy giữa người đánh giá và người đánh giá trong bài kiểm tra SOAR. Tính hợp lệ của thử nghiệm được xác định bằng cách so sánh kết quả đo góc với kết quả chụp chuyển động 3D.
Độ tin cậy giữa các giám định viên và trong cùng một giám định viên được đánh giá bằng hệ số tương quan trong cùng một lớp (ICC), trong đó các giá trị < 0,4 được hiểu là kém, 0,40-0,59 là trung bình, 0,60-0,74 là tốt và ⋝ 0,75 là độ tin cậy tuyệt vời. Để đảm bảo tính hợp lệ, hệ số tương quan Pearson đã được diễn giải.
Có 25 đối tượng với độ tuổi trung bình là 24 đã tham gia vào nghiên cứu. Tổng cộng có 50 hông được kiểm tra. Độ tin cậy nội bộ của cả hai giám khảo là 0,77 (0,64-0,86) và 0,80 (0,68-0,88), cho thấy độ tin cậy tuyệt vời. Độ tin cậy giữa các giám khảo là 0,65 (0,36-0,80), cho thấy độ tin cậy tốt giữa hai giám khảo độc lập.
Sai số chuẩn của phép đo là 2,5° và 3° đối với mỗi người đánh giá và sự thay đổi tối thiểu có thể phát hiện được là 3,5° và 4,2°. Khi so sánh kết quả với chuyển động 3D để đánh giá tính hợp lệ, rõ ràng là các phép đo có mức liên quan từ thấp đến trung bình.
Các hoạt động hàng ngày chủ yếu đòi hỏi chuyển động hông khép kín và bài kiểm tra này là biện pháp tuyệt vời để có thêm thông tin chi tiết về vấn đề này. Năm 2010, van Trijffel và các đồng nghiệp đã thực hiện một đánh giá có hệ thống nhằm tìm hiểu các biện pháp đo chuyển động thụ động của chi dưới và nhận thấy độ tin cậy không đủ để đo độ duỗi hông. Nhìn chung, các phép đo này được thực hiện ở tư thế không chịu lực với bệnh nhân nằm sấp, nhưng điều này bỏ qua ảnh hưởng của tư thế chịu lực khi đứng đối với kết quả đo. Trong một số trường hợp, phép đo nằm sấp này rất khó thực hiện, đặc biệt là khi tay của người kiểm tra không thể nắm được chân của đối tượng. Bài kiểm tra SOAR này có thể là một lựa chọn tốt để khắc phục những hạn chế này.
Vì xét nghiệm SOAR này chỉ cần một thước dây và một máy đo góc nên có thể áp dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng và không yêu cầu thiết bị đắt tiền. Bằng cách sử dụng thước dây, bài kiểm tra có thể được chuẩn hóa để theo thời gian, các phép đo chỉ bị ảnh hưởng đôi chút bởi những thay đổi về vị trí. Cùng với phép đo góc, ASIS và PSIS được sờ nắn và đường thẳng ở giữa chỉ ra vị trí đặt cánh tay trên của máy đo góc vuông góc với nó. Theo cách này, thử nghiệm đã tính đến ảnh hưởng của độ nghiêng xương chậu.
Các phép đo chuyển động 3D mang lại phạm vi chuyển động mở rộng hông chức năng lớn hơn khoảng 70% thời gian. Các tác giả cho rằng có thể đường cong học tập đã gây ra sự khác biệt này. Ngoài ra, chuyển động của thân cây có thể khiến lớp da bên dưới các điểm đánh dấu di chuyển, do đó có thể làm giảm sự khác biệt. Vậy điều này có thực sự hợp lệ không?
Các phép đo chuyển động 3D mang lại phạm vi chuyển động mở rộng hông chức năng lớn hơn trong khoảng 70% thời gian. Các tác giả cho rằng có thể đường cong học tập đã gây ra sự khác biệt này. Ngoài ra, chuyển động của thân cây có thể khiến lớp da bên dưới các điểm đánh dấu di chuyển, do đó có thể làm giảm sự khác biệt. Vậy đây có thực sự là phép đo hợp lệ không? Dựa trên những kết quả này thì có thể là không. Tuy nhiên, xét đến các bình luận của tác giả, với hình ảnh y khoa trong các nghiên cứu trong tương lai, kết luận này có thể thay đổi.
Giới hạn dưới của khoảng tin cậy 95% cho thấy độ tin cậy nội bộ của người đánh giá là tốt. ICC trung bình và giới hạn trên cho thấy độ tin cậy nội bộ tuyệt vời. Về độ tin cậy giữa các chuyên gia , ICC trung bình là tốt, nhưng giới hạn dưới của khoảng tin cậy chỉ kém, trong khi giới hạn trên cho thấy độ tin cậy tuyệt vời. Do đó, có vẻ như độ chính xác cao hơn nhiều khi phép đo chỉ được thực hiện bởi 1 giám khảo (vì khoảng tin cậy của người đánh giá hẹp hơn). Việc so sánh giữa các giám khảo khác nhau mang lại khoảng tin cậy rộng hơn nhiều và do đó, việc so sánh trực tiếp này có thể có những hạn chế.
Những khía cạnh tốt mà chúng tôi lưu ý là thứ tự đo lường ngẫu nhiên và đánh giá độc lập của cả hai giám khảo, những người cũng không biết kết quả (khi một điều tra viên bổ sung đọc và ghi lại kết quả của máy đo góc).
Một lưu ý liên quan mà tôi có với những kết quả này là sự khác biệt quan trọng tối thiểu có vẻ khá nhỏ. Tuy nhiên, bạn nên lưu ý rằng phạm vi chuyển động mở rộng hông là một chuyển động nhỏ, với tổng phạm vi chuyển động khoảng 30°. Vì vậy, sự khác biệt tối thiểu quan trọng 3-4° có vẻ nhỏ nhưng so với tổng biên độ chuyển động duỗi hông thì nó có nghĩa là hơn 10%. Do đó, bạn phải có được sự thay đổi 10% trong phép đo này để có thể diễn giải kết quả.
Thay vì so sánh những kết quả này giữa những người giám định độc lập, có vẻ như bài kiểm tra SOAR có thể đưa ra những kết quả nhất quán khi được một người giám định sử dụng. Do đó, có vẻ như bài kiểm tra này có thể đóng vai trò là phép đo theo chiều dọc có liên quan đến độ mở rộng hông theo chuỗi khép kín, đo lường những thay đổi theo thời gian. Cần lưu ý một sự khác biệt tối thiểu quan trọng là 3-4° và do đó những thay đổi dưới đây không phản ánh những thay đổi thực sự trong phạm vi chuyển động duỗi hông. Các nghiên cứu trong tương lai nên tìm hiểu xem liệu bài kiểm tra này có thực sự là thước đo hợp lệ về phạm vi chuyển động duỗi hông chức năng hay không vì do một số vấn đề, tính hợp lệ được đo lường trong nghiên cứu này có thể bị ảnh hưởng.
Chúng tôi đã biên soạn một Sách điện tử miễn phí 100% có chứa 21 bài kiểm tra chỉnh hình hữu ích nhất theo từng vùng cơ thể, đảm bảo giúp bạn đưa ra chẩn đoán chính xác ngay hôm nay!