Hội chứng khối hộp sau bong gân mắt cá chân bên | Chẩn đoán & Điều trị

Hội chứng khối hộp sau bong gân mắt cá chân bên | Chẩn đoán & Điều trị
Hội chứng khối hộp cũng được gọi trong tài liệu là khối hộp bán trật, khối hộp khóa, khối hộp rơi, hội chứng đứt khối hộp, viêm dây thần kinh gan chân bên và hội chứng khối hộp mác ( Patterson et al. 2006 )
Bong gân mắt cá chân chiếm tỷ lệ lớn trong các chấn thương ở chi dưới, với tới 40% các trường hợp có triệu chứng kéo dài. Có giả thuyết cho rằng khối hộp chữ nhật có thể là nguyên nhân gây ra những trường hợp đau mắt cá chân kéo dài. Newell và cộng sự (1981) báo cáo rằng 4% trong số tất cả các vận động viên có vấn đề về bàn chân đều mắc hội chứng bàn chân hộp. Có vẻ như tình trạng này phổ biến hơn ở các vũ công ba lê chuyên nghiệp với tới 17% các trường hợp chấn thương ở bàn chân và mắt cá chân được báo cáo ( Marshall et al. 1992 ).
Cơ chế bệnh sinh
Giả thuyết về hội chứng khối hộp dựa trên tiền sử, nhóm các dấu hiệu và triệu chứng, chẩn đoán phân biệt, chuyên môn lâm sàng và tất nhiên là cơ chế chấn thương. Người ta cho rằng trong chấn thương đảo ngược ban đầu nghiêm trọng, sự xoắn giữa xương hộp và xương thuyền, xương chêm cũng như xương gót chân khiến xương hộp ở vị trí tương đối ngửa.
Sử dụng ứng dụng trị liệu thủ công
- Hơn 150 kỹ thuật điều động và thao tác cho hệ thống cơ xương
- Bao gồm lý thuyết cơ bản và các bài kiểm tra sàng lọc
- Ứng dụng hoàn hảo cho bất kỳ ai muốn trở thành MT
Hình ảnh lâm sàng & Khám
Tình trạng này vẫn gây đau, đặc biệt là ở khớp gót chân, trong khi tình trạng đau ở dây chằng mắt cá chân bên giảm dần.
Bệnh nhân có dáng đi bất thường với cơn đau tăng lên trong giai đoạn đẩy ra và nếu cơn đau cho phép kiểm tra khả năng vận động thì khớp không hoạt động.
Bài kiểm tra
Như đã đề cập trước đó, chẩn đoán phân biệt là cần thiết và bước đầu tiên trong việc đánh giá bong gân mắt cá chân là loại trừ gãy xương bằng cách sử dụng các quy tắc Ottawa Ankle .
Kiểm tra khả năng vận động của xương giữa bàn chân khi xoay ra ngoài và khép vào có thể tái hiện các triệu chứng của bệnh nhân. Theo Jennings và cộng sự. (2005) , sự quay vào trong và sự bắt cóc cũng có thể thỉnh thoảng gây ra đau đớn. Xương hộp là xương duy nhất ở bàn chân khớp với cả khớp cổ chân (phức hợp Lisfranc) và khớp giữa cổ chân (khớp Chopart), và là xương duy nhất nối cột bên với cung ngang gan bàn chân ( Patterson et al. 2006 ). Do đó, việc đánh giá cả Đường Lisfranc và Đường Chopart trong quá trình thử nghiệm khả năng di chuyển là có ý nghĩa.
Hơn nữa, các tác giả này cũng khuyến nghị thực hiện các bài kiểm tra chức năng bổ sung dưới dạng nâng gót chân/ngón chân hoặc nhảy lò cò bằng một chân. Những hoạt động này thường khó hoặc không thể thực hiện được vì đau.
Thật không may, đánh giá về mặt hình ảnh dường như không có giá trị bổ sung trong chẩn đoán hội chứng Cuboid ( Mooney et al. 1994 ).
Jennings và cộng sự (2005) tóm tắt các phát hiện lâm sàng như sau:
Phát hiện chủ quan
- Cơ chế chấn thương (gập/lật ngược lòng bàn chân)
- Vị trí đau (bên giữa bàn chân/mắt cá chân)
Phát hiện khách quan
- Đau khi ấn vào khối hộp
- Kiểm tra khả năng vận động giữa ngón chân dương tính (tái tạo triệu chứng)
- Kiểm tra chuyển động mu bàn chân/bàn chân và/hoặc gan bàn chân/mặt bàn chân dương tính (đau)
- Dáng đi khập khiễng (nổi bật nhất trong giai đoạn đẩy ra)
- Kiểm tra cơ bằng tay—đảo ngược/lật ngược có kháng cự (đau và có thể yếu)
- Kiểm tra chức năng (nâng gót chân/ngón chân hoặc kiểm tra nhảy bằng một chân) Chẩn đoán phân biệt
- Nghiên cứu hình ảnh/X quang để loại trừ các bệnh lý khác
5 KỸ THUẬT ĐIỀU KHIỂN / ĐIỀU KHIỂN CẦN THIẾT MÀ MỌI NHÀ VẬT LÝ HỌC NÊN THÀNH THẠO
Sử dụng ứng dụng trị liệu thủ công
- Hơn 150 kỹ thuật điều động và thao tác cho hệ thống cơ xương
- Bao gồm lý thuyết cơ bản và các bài kiểm tra sàng lọc
- Ứng dụng hoàn hảo cho bất kỳ ai muốn trở thành MT
Sự đối đãi
Một kỹ thuật được mô tả trong tài liệu là thao tác định vị lại theo hướng xoay vào trong tương đối. Người ta cho biết rằng sau khi thực hiện phẫu thuật, bệnh nhân không còn đau vào ngày hôm sau và có thể tiếp tục hoạt động.
Thao tác định vị lại
Bệnh nhân nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng và bàn chân thõng xuống mép ghế.
Bạn sẽ đứng ở giữa bàn chân và đặt lòng bàn tay thuận của bạn lên mặt ngoài và mặt trong của khối hộp ngay gần gốc xương bàn chân thứ năm.
Ngón út của bàn tay kia nằm ở mặt lưng và mặt trong của khối hộp chữ nhật nằm bên và gần đường thẳng giữa ngón thứ ba và ngón thứ tư.
Ở vị trí này, cẳng tay tạo thành một đường thẳng. Sau khi bạn chắp hai tay lại, bệnh nhân thực hiện động tác gập mu bàn tay tối đa chủ động, làm căng khối hộp ở tư thế nghiêng ngoài dưới mức tối đa.
Tạo lực nén thông qua khuỷu tay cũng như tăng lực căng trước theo hướng xoay vào trong.
Yêu cầu bệnh nhân thả lỏng bàn chân và thực hiện động tác xoay sấp bằng cả hai khuỷu tay kết hợp với lực ép của cả hai cơ út.
Sau đó từ từ thả chân ra.
Thao tác roi hình khối
Một kỹ thuật khác được mô tả bởi Jennings và cộng sự. (2005) là thao tác roi hình khối hộp:
Thao tác nắn xương khối hộp được thực hiện khi bệnh nhân nằm sấp, bắt đầu với đầu gối cong 70° và mắt cá chân gần như ở vị trí trung tính (A). Sau đó, đầu gối được duỗi thụ động khi mắt cá chân được gấp về phía gan bàn chân với khớp dưới mắt cá chân hơi ngửa ra sau (B). Một lực đẩy được tác dụng bằng cả hai ngón tay cái vào mặt gan bàn chân của khối hộp (C).
Kỹ thuật này cũng được minh họa chi tiết trong Ứng dụng trị liệu thủ công của chúng tôi.
Các phương pháp điều trị bảo tồn khác bao gồm nhiều phương thức điều trị khác nhau, bài tập trị liệu, băng cung nhuộm màu thấp và đệm là những phương pháp bổ sung cho các kỹ thuật thao tác khối hộp ( Patterson et al. 2006 ).
Tài liệu tham khảo
Sử dụng ứng dụng trị liệu thủ công
- Hơn 150 kỹ thuật điều động và thao tác cho hệ thống cơ xương
- Bao gồm lý thuyết cơ bản và các bài kiểm tra sàng lọc
- Ứng dụng hoàn hảo cho bất kỳ ai muốn trở thành MT